- Vị trí đặt đá phong thủy trong nhà tốt nhất để kích hoạt tài lộc
- Loại đá phong thủy nào giúp hấp thu năng lượng tích cực?
- Đeo nhẫn chuẩn phong thủy hút tài lộc và vận đào hoa
Bản thân các tinh thể đá quý là sức mạnh của năng lượng, sở hữu vẻ đẹp riêng biệt với những hình dạng, kích cỡ, màu sắc khác nhau.
Đá phong thủy chắc hẳn là cái tên được rất nhiều người biết đến nhưng không phải ai cũng hiểu cặn kẽ, cụ thể đá phong thủy là gì, có lịch sử và niên đại sử dụng từ bao lâu?
1. Đá phong thủy là gì?
Đá phong thủy là loại đá quý hoặc bán quý, có ý nghĩa quan trọng về mặt phong thủy. Bản thân các tinh thể đá quý là sức mạnh của năng lượng, sở hữu vẻ đẹp riêng biệt với những hình dạng, kích cỡ, màu sắc khác nhau.
Chúng lưu trữ năng lượng và cũng có khả năng di chuyển, lan tỏa nguồn năng lượng tích cực vào trong không gian cũng như cơ thể một người, mang đến những tác dụng kì diệu.
2. Tính chất của các loại đá quý và đá bán quý
Đá quý
Đá quý là loại đá có độ bền cao, độ cứng thường từ 8 đến 10 (theo thang độ cứng Mohs) như: kim cương, ngọc lục bảo, ruby-hồng ngọc, lam ngọc,…
Các loại đá này có màu sắc đẹp, độ tinh khiết cao và thường được chế tác làm đồ trang sức. Sau khi đã được chế tác, những loại trang sức từ đá quý thường sử dụng tiêu chuẩn 4C (Colour, Carat, Clarity, Cut) để xác định chất lượng.
Đá bán quý
Đá bán quý là loại đá có độ cứng khoảng từ 3-4 đến 6-7 (độ cứng Mohs) như: Thạch anh, mã não, jade (ngọc bích), peridot, granat, fluorit, spinel, malachit, azurit, calcit…
Các đá này cũng có màu sắc đẹp, độ tinh khiết cao và cũng được chế tác làm đồ trang sức như mặt dây, mặt nhẫn, vòng tay, vòng cổ…
Ở Việt Nam hiện nay, các loại đá quý, đá bán quý được sử dụng phổ biến là ruby, saphia, topaz, aquamarin, thạch anh, mã não,…
3. Lịch sử và niên đại sử dụng của đá phong thủy
Từ thời cổ đại đến trước thời kì Phục hưng
Thật công bằng khi nói rằng chừng nào chúng ta còn tồn tại với tư cách là một loài, chúng ta đã có “ái lực” và sức hút đặc biệt với các loại đá phonng thủy. Việc sử dụng đá phonng thủy bắt nguồn từ sự khởi đầu của loài người.
Loại đá có niên đại lịch sử lâu đời nhất là hổ phách Baltic, một số từ khoảng 30.000 năm trước và hạt hổ phách được phát hiện ở Anh từ 10.000 năm trước, kết thúc kỷ băng hà cuối cùng.
Các loại vòng đeo tay và dây chuyền đá đã được phát hiện tại các ngôi mộ Palaeolithic ở Thụy Sĩ và Bỉ, cùng các mỏ malachite ở Sinai từ năm 4000 trước Công nguyên.
Niên đại sử dụng của các loại đá phong thủy cũng có khá nhiều biến động, thăng trầm theo thời gian.
Đá phong thủy đã bị cấm sử dụng bởi nhà thờ Cơ đốc giáo vào năm 355 sau Công nguyên, nhưng đá quý vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng, với sapphire là loại đá quý được ưa chuộng cho các vòng giáo hội trong thế kỷ 12.
Marbodus - Giám mục Rennes trong thế kỷ 11, tuyên bố rằng mã não sẽ làm cho người đeo dễ chịu hơn, có lợi cho Thiên Chúa và thuyết phục người dân nên sử dụng chúng.
Các tài liệu tham khảo lịch sử đầu tiên về việc sử dụng các tinh thể đá đến từ người Sumer cổ đại, cho các nghi lễ ma thuật của họ.
Người Ai Cập cổ đại đã sử dụng lapis lazuli, ngọc lam, carnelian, ngọc lục bảo và thạch anh trong suốt làm đồ trang sức và chạm khắc bùa hộ mệnh. Người Ai Cập cổ đại cũng sử dụng đá như một phương thuốc để chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe.
Chrysolite (sau này được dịch là cả topaz và peridot) đã được sử dụng để chống lại nỗi kinh hoàng của màn đêm và thanh trừng các linh hồn ma quỷ.
Đá xanh đã được sử dụng trong việc làm quan tài chôn cất người chết ở Ai Cập, tương tự vào thời kỳ sau đó ở Mexico cổ đại.
Người Hy Lạp cổ đại gán một số tính chất cho các tinh thể và nhiều tên chúng ta sử dụng ngày nay có nguồn gốc từ Hy Lạp. Từ "pha lê" xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là băng, vì người ta tin rằng thạch anh trong suốt là nước đã đóng băng nênó sẽ luôn rắn chắc.
Từ thạch anh tím có nghĩa là 'không say' và được đeo như một lá bùa hộ mệnh để ngăn chặn cả say rượu và nôn nao.
Hematite xuất phát từ từ máu, vì màu đỏ được tạo ra khi nó oxy hóa. Hematite là một loại quặng sắt và người Hy Lạp cổ đại liên kết sắt với Bạch Dương, vị thần chiến tranh.
Những người lính Hy Lạp sẽ chà xát hematit lên cơ thể của họ trước khi chiến đấu, cố gắng làm cho họ trở nên bất tử. Các thủy thủ Hy Lạp cũng đeo nhiều loại bùa hộ mệnh bằng loại đá này để giữ an toàn trên biển.
Đá ngọc bích được đánh giá cao ở Trung Quốc cổ đại và được công nhận là một loại đá chữa bệnh thận ở cả Trung Quốc và Nam Mỹ.
Từ thế kỷ 11 đến thời Phục hưng
Ở châu Âu, từ thế kỷ 11 đến thời Phục hưng do phát hiện ra những ưu điểm của đá quý và đá bán quý trong điều trị một số bệnh, nó đã được sử dụng cùng với các phương thuốc thảo dược. Các tác giả tiên phong cho trào lưu này bao gồm Hildegard von Binghen, Arnoldus Saxo và John Mandeville.
Trong thời Phục hưng, truyền thống sử dụng đá quý trong chữa bệnh vẫn được chấp nhận, nhưng con người cũng bắt đầu đưa ra lời giải thích khoa học hơn.
Năm 1609, Anselmus de Boot, bác sĩ của tòa án tại Rudolf II của Đức, cho rằng bất kỳ đức tính nào mà một viên đá quý có được là do sự hiện diện của các thiên thần tốt hay xấu.
Các thiên thần tốt sẽ ban một ân sủng đặc biệt cho đá quý, nhưng các thiên thần xấu sẽ cám dỗ mọi người tin vào vật phẩm phong thủy này và không phải là những món quà của Thiên Chúa ban cho.
Sau đó trong cùng thế kỷ, Thomas Nicols đã bày tỏ trong cuốn 'Faithful Lapidary' của mình rằng đá quý, như những vật vô tri, không thể sở hữu những hiệu ứng được tuyên bố trong quá khứ. Do đó, trong Thời đại Khai sáng, việc sử dụng đá quý để chữa bệnh và bảo vệ bắt đầu không được ưa chuộng ở Châu Âu.
Vào đầu thế kỷ 19, một số thí nghiệm thú vị đã được thực hiện để chứng minh tác dụng của đá đối với những đối tượng tin vào tác dụng kì diệu của nó.
Trong một trường hợp, đối tượng tuyên bố không chỉ cảm nhận những thay đổi về thể chất và cảm xúc khi chạm vào nhiều loại đá khác nhau, mà còn trải nghiệm mùi và vị.
Mặc dù không còn được sử dụng trong y học, đá quý vẫn tiếp tục giữ ý nghĩa cho đến hiện tại.
Thật thú vị khi lưu ý rằng có nhiều ví dụ về đá quý có ý nghĩa tương tự với các nền văn hóa khác nhau, ngay cả khi hoàn toàn không có sự tương tác giữa các nền văn hóa này và không có cơ hội trao đổi chéo. Ngọc bích được coi là một viên đá chữa bệnh thận của người Trung Quốc cổ đại, và cả nền văn minh Aztec và Maya, màu ngọc lam đã được đeo để mang lại sức mạnh và sức khỏe trên toàn thế giới, …
Thời đại mới
Vào những năm 1980, với sự ra đời của văn hóa Thời đại mới, việc sử dụng đá quý bắt đầu xuất hiện trở lại như một vật phẩm phong thủy có nhiều giá trị, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực.
Nếu như, việc sử dụng đá trước đây mới chỉ dừng lại ở những hiểu biết sơ khai, chưa có nhiều kĩ thuật chế tác thì ngày nay, trong xã hội hiện đại, việc sử dụng đá phong thủy tập trung vào việc chế tác tinh xảo, sử dụng các tinh thể đá theo cách thuận lợi hơn xưa.
Kết quả là, các viên đá khác nhau được gán các thuộc tính khác nhau dựa trên các hiệu ứng và tính chất của chúng.
Dưới đây là danh sách một số loại đá quý và niên đại sử dụng của chúng
STT | Tên các loại đá | Niên đại sử dụng |
1 | Hổ Phách | Những năm 90 Sau Công nguyên |
2 | Thạch anh | 300.000 năm trước |
3 | Ngọc lục bảo | 2.000 năm trước |
4 | Đá Saphia | 800 năm Trước công nguyên |
5 | Ngọc topaz | Từ khi có sự sống |
6 | Đá perido | Ai Cập, La Mã cổ đại |
7 | Đá carnelian | Từ khi có sự sống |
8 | Đá muối Himalaya | Hàng chục triệu năm trước đây |
Ngoài những loại đá phổ biến trên, còn khá nhiều loại đá khác có niên đại sử dụng muộn hơn.
Để lại bình luận
5