- Định Nghĩa Rác Thải là gì? Phân loại các loại rác thải
- Định Nghĩa Nghiên Cứu Khoa Học là gì? Các khái niệm và phân loại
- Khái Niệm Khoa Học là gì? Phân loại khoa học
Định Nghĩa Quản Lý là một định nghĩa nhiều bạn đang cần tìm hiểu thông tin, trong bài viết này chúng ta sẽ làm rõ về khái niệm quản lý đúng nhất theo các tài liệu chính xác.
Định Nghĩa Quản Lý là gì?
"Quản lý". Theo từ điển Anh - Việt có nghĩa "Management" là thuật ngữ Tiếng Anh. Quản lý đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí thực và giá trị vô hình). Quản lý là một phạm trù được nhắc đến nhiều trong cuộc sống, tuy nhiên, ít ai hiểu rõ nội dung của cụm từ này một cách hoàn thiện nhất.
Tầm quan trọng của quản lý trong tổ chức?
Đầu thế kỷ 20 nhà văn quản lý Mary Parker Follett định nghĩa quản lý là "nghệ thuật khiến công việc được làm bởi người khác". Quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong các tổ chức nhân sự nói chung là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung.
Công việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ (theo Henry Fayol): xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn lực có thể được sử dụng và để quản lý là nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên nhiên.
Nhiệm vụ cơ bản của Quản lý là gì?
- Hoạch định: xác định mục tiêu, quyết định những công việc cần làm trong tương lai (ngày mai, tuần tới, tháng tới, năm sau, trong 5 năm sau) và lên các kế hoạch hành động.
- Tổ chức: Sử dụng một cách tối ưu các tài nguyên được yêu cầu để thực hiện kế hoạch.
- Bố trí nhân lực: Phân tích công việc, tuyển mộ và phân công từng cá nhân cho từng công việc thích hợp.
- Lãnh đạo/Động viên: Giúp các nhân viên khác làm việc hiệu quả hơn để đạt được các kế hoạch (khiến các cá nhân sẵn lòng làm việc cho tổ chức).
- Kiểm soát: Giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động theo kế hoạch (kế hoạch có thể sẽ được thay đổi phụ thuộc vào phản hồi của quá trình kiểm tra).
Quản lý theo khái niệm của các trường phái thống trị học
Xuất phát từ những góc độ tìm hiểu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về cai quản. cho đến nay, luôn luôn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là diễn ra từ thế kỷ 21, các quan niệm về thống trị lại càng phong phú. Các trường phái thống trị học đang mang ra những khái niệm về thống trị như sau:
- Tailor: “Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và hãy để ý đến phương pháp tốt nhất, kinh tế nhất mà họ sử dụng ” .
- Fayel: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, công ty, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: plan, đơn vị, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. thống trị chính là thực hiện kế hoạch, đơn vị, chỉ đạo điều chỉnh và làm chủ ấy”.
- Hard Koont: “Quản lý là xây dựng và duy trì một nơi tốt giúp con người hoàn thiện một hướng dẫn kết quả mục đích đang định”.
- Peter F Druker: “Suy cho cùng, cai quản là thực tiễn. Bản chất của nó k nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó k nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích”.
- Peter. F. Dalark: “Định nghĩa thống trị phải được hạn chế bởi nơi bên ngoài nó. Theo đó, quản lý gồm có 3 tính năng chính là: Quản tại saoanh nghiệp, cai quản giám đốc, quản lý công việc và nhân công”.
Chủ trương của Peter. F. Dalark là hạn chế công ty từ góc độ xã hội, lấy cai quản sử dụng chức năng chính của doanh nghiệp. vì vậy, cai quản trở thành chức năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp góp phần xây dụng chế độ không gian mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là “một xã hội tự do và phát triển“. Nếu k có quản lý kết quả thì công ty k thể tồn tại và từ đó k thể thiết lập một không gian tự do và phát triển.
Từ đó đủ sức thấy, cơ sở chính trong khắc phục độ khó của vấn đề là “quan điểm về hệ thống“, cơ sở chính trong khắc phục độ khó về thời gian là “quan niệm về sự chuyển động”. như vậy, đặc điểm lớn nhất trong luận của Peter F. Dalark là cách Nhìn hệ thống mở và chuyển động”. Đây cũng là quan điểm cốt lõi trong tư tưởng triết học về thống trị của ông.
Tư tưởng triết học về thống trị của Peter F. Dalark
Quản lý doanh nghiệp phải theo nguyên tắc: “lấy kết quả kinh tế thực tế làm nguyên tắc hoạt động, đây là một mẹo Quan sát tổng thể quét thành tích sử dụng cốt lõi”.
Nguyên tắc quản lý dành cho giám đốc cần có động lực mạnh mẽ quản lý mục đích và làm chủ bản thân để họ trở thành một người giám đốc thông minh.
Quản lý công việc thì nhấn mạnh: công việc cần có sức sản xuất và phải thông qua những công cụ đánh giá, tổng hợp, kiểm soát và thí nghiệm.
Thống trị nhân lực coi trọng gốc nhân lực, làm cho họ có thời cơ, chủ động phát huy ưu điểm của mình, thoả mãn nhu cầu về chức năng và địa vị thế giới của họ trong công việc, đưa đến cho họ cơ hội, lợi ích như nhau để mỗi người thể hiện giá trị, hoài bão của mình.
Tổng kết, quản lý là quan điểm chứ chẳng hề kỹ thuật, là tự do chứ chẳng phải bị khống chế, là Nhiệm vụ thực tế chứ không phải lý luận; là thành tích chứ chẳng hề tiềm năng, là trách nhiệm chứ chẳng phải quyền lực; là cống hiến chứ không hề thăng hến; là thời cơ chứ không phải chướng ngại; là dễ dàng chứ không phải khó khăn.
Có thể kể ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quản lý, trên đây chỉ là một vài ý kiến đưa tính đại diện trên cơ sở đánh giá đo đạt những quan điểm khác nhau. tóm lại, những ý kiến đó tuy rất rõ ràng, đúng đắn nhưng chưa đầy đủ. Chúng chỉ chú trọng đến thống trị giống như là một hiện tượng chứ chưa làm bộc lộ rõ bản chất của nó. Vậy, làm thế nào để khái quát định nghĩa cai quản một phương pháp không khó khăn và tương đối toàn diện?
Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, vừa mới là hành vi thì cần phải có người gây ra và người chịu ảnh hưởng. tiếp theo nên có mục đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? thành ra, để tạo dựng nên hoạt động cai quản trước hết nên có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần định hình thị trường quản lý: cai quản cái gì? Cuối cùng cần định hình mục đích quản lý: thống trị vì cái gì?
Có được 3 nguyên nhân trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên hoạt động cai quản. song song cần quan tâm rằng, bất cứ hoạt động cai quản nào cũng không hề là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong nơi, điều kiện nhất định nào đó.
Yếu tố tạo thành nên hoạt động thống trị
Với những nghiên cứu trên mọi hoạt động thống trị đều phải do 4 nguyên nhân cơ bản sau cấu thành:
- Chủ thể cai quản, trả lời câu hỏi: do ai quản lý?
- Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: cai quản cái gì?
- Mục đích thống trị, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì?
- Nơi và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: cai quản trong nơi nào?
Vì bản thân hành vi cai quản là do 4 yếu tố trên tạo thành, do đó 4 thành phần đó đương nhiên cần được thể hiện trong định nghĩa về quản lý. tiếp theo, do hoạt động cai quản đích thực cần vận dụng chức năng và phương thức quản lý để đạt được mục đích thống trị đề ra nên điều này cũng cần được thể hiện trong khái niệm về thống trị. không những thế, Fayel trong định nghĩa quản lý vừa mới trực tiếp chỉ ra rằng: cai quản chính là lập plan, đơn vị, thực hiện, chỉ huy, tiến hành, kiểm soát; và nếu lý giải một cách dễ dàng giống như vậy thì thống trị lại trở thành một hành động cụ thể mà mất đi bản chất thống nhất của nó. định nghĩa cai quản nên phản ánh khách quan đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý, thể hiện bản chất quản lý, hay đủ nội lực nói, trong khái niệm về cai quản nhất định phải đề cập đến bản chất của quản lý là theo đuổi năng suất, hiệu quả.
Dựa trên chức năng, vai trò của những nguyên nhân trong thống trị kể trên và liên kết lôgic giữa chúng, có thể khái quát ý nghĩa cơ bản của thống trị. Thông thường mà nói, cai quản là hành vi mà những thành viên trong đơn vị thực hiện ở một môi trường nhất định nhằm nâng cao năng suất công việc, để đạt được mục đích của tổ chức.
Thực ra, nếu một mực truy đến cùng câu hỏi “quản lý là gì?” thì chính mình câu hỏi gần như không có trị giá. Cho dù chúng ta có bàn thảo, tìm hiểu ra sao, về mặt lí bàn luận mà nói, chúng ta luôn luôn k đạt được sự thống nhất, trên thực tế cũng không thể đưa ra một kết bàn luận chung. Nhưng chính vì câu hỏi “quản lý là gì?” có sức tác động sâu rộng đến mỗi một học giả nghiên cứu chủ đề cai quản, đến mỗi một người thực hiện công việc quản lý như vậy nên sử dụng rõ chủ đề này mới thực sự có ý nghĩa, mặc dù để làm rõ chủ đề “quản lý là gì?” quả thực là công việc không mấy không khó khăn.
Thống trị là sự phối hợp của ba phương diện
Chúng ta hãy bàn về định nghĩa “quản lý” trên phạm vi rộng to hơn, quy mô hơn như trên phạm vi quốc gia chẳng hạn. Trong một tờ báo có đăng tải số liệu đo đạt năm 2001 cho biết: doanh thu bình quân đầu người nước Mỹ bằng 11 lần một số nước châu Á. doanh thu bình quân đầu người của Mỹ chẳng phải do một người Mỹ mà là trị giá bình quân của all người dân Mỹ tạo nên. Sự mẹo biệt về thu nhập bình quân này chẳng phải do sự mẹo biệt về chỉ số giỏi của người dân hai nước mà là do khả năng tương tác của họ khác nhau. Cụ thể nói đến công việc thì đó là phương thức cai quản và chiến lược cai quản của 2 nước là khác nhau.
Có thể đưa ra kết bàn luận rằng: cai quản k không khó khăn chỉ là khái niệm, nó là sự kết hợp của 3 phương diện:
- Thứ nhất, thông qua tập thể để xúc tiến tính tích cực của cá nhân.
- Thứ hai, điều hoà liên kết giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên.
- Thứ ba, gia tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác xây dựng trị giá lớn hơn giá trị một mình – giá trị tập thể
Kinh doanh và quản lý
Trong cuộc sống, chúng ta thường đánh đồng cai quản với lãnh đạo và mua bán. Thật ra, mua bán, cai quản, lãnh đạo là 3 định nghĩa ở 3 phạm trù khác nhau nhưng có liên hệ với nhau. Về mặt định nghĩa thì có chỗ tương đồng, có chỗ không giống biệt rõ rệt. Dưới đây sẽ đánh giá sự không giống nhau giữa kinh doanh và quản lý, lãnh đạo và quản lý để từ đó hiểu rõ về định nghĩa quản lý.
Kinh doanh thuộc phạm trù kinh tế thương mại, là tính năng của người sản xuất. mua bán là một chuỗi hoạt động được định sẵn trong quá trình công ty. công ty vừa phải sản xuất ra sản phẩm một mẹo có hiệu quả và kinh tế nhất trong công cuộc trực tiếp sản xuất, vừa phải tiêu thụ hàng hóa một hướng dẫn có lợi nhất trong công cuộc lưu thông, từ đó thu được lợi nhuận nhiều hơn, xây dựng rộng hơn quy mô sản xuất. Để tiêu thụ món hàng một phương pháp có lợi nhất, doanh nghiệp trước khi tiêu thụ phải tìm hiểu đối tượng, hiểu được người tiêu dùng muốn gì, giá cả nào easy được người tiêu sử dụng chấp nhận, hơn nữa còn phải nghiên cứu những đối thủ cạnh tranh, sức cạnh tranh của họ giống như thế nào. Trong công cuộc tiêu thụ, còn cần sử dụng tuyên truyền, ads, cung cấp dịch vụ tốt, giảm giá để thu hút khách hàng. Để sản xuất một hướng dẫn có hiệu quả và kinh tế, công ty cần phụ thuộc tình hình thị trường, thị trường tiêu thụ, chi phí, lựa chọn lựa nguyên vật liệu, trang thiết bị và bí quyết sản xuất,… toàn bộ việc chọn thị trường, món hàng, nguyên liệu, máy móc. Và việc tìm hiểu nhu cầu người tiêu dùng, tình ảnh đối tượng, đối thủ cạnh tranh đều thuộc hoạt động kinh doanh.
Muốn làm cho một công ty tăng trưởng tốt, ngoài công tác quản lý tốt, còn cần nghiên cứu phương hướng phát triển, mục tiêu phấn đấu và phương thức vận hành của công ty phụ thuộc tình ảnh thực tiễn trong và ngoài công ty, biến kết quả nghiên cứu thành sách lược khoa học và hành động thực tiễn để thu được ích lợi kinh tế lớn. Những điều này chính là hoạt động mua bán.
Từ ý nghĩa thông thường, mua bán và cai quản vừa có tính thống nhất, vừa có tính không giống biệt. Nhìn từ lịch sử, quản lý là sản phẩm của quá trình xã hội hoá lao động, còn mua bán là sản phẩm của kinh tế thương mại. Nhìn từ phạm vi vận dụng, thống trị được dùng trong mọi tổ chức, kinh doanh chỉ sử dụng trong doanh nghiệp. Trên phương diện mục tiêu, mục tiêu của quản lý là nâng cao năng suất của đơn vị, mục đích kinh doanh là nâng cao quyền lợi kinh tế.
Nhìn từ content cấu thành, Fayel cho rằng mua bán gồm những phương diện sau:
- Hoạt động kỹ thuật (sản xuất, chế tạo, gia công).
- Hoạt động thương mại (mua nguyên liệu, tiêu thụ, phân phối).
- Hoạt động tài vụ (tập kết và sử dụng like đáng nhất nguồn vốn).
- Hoạt động an ninh (bảo vệ tài sản và con người).
- Hoạt động kế toán (hoá đơn tài chính, biểu phụ trách tài sản, vốn, hoạt động thống kê).
- Hoạt động thống trị (kế hoạch, tổ chức, điều chỉnh, chỉ đạo, kiểm soát).
Tính năng của mua bán chính là đảm bảo cho sáu hoạt động trên được tiến hành thuận tiện, để có được hiệu quả mua bán cao nhất.
Từ đó đơn giản nhận thấy rằng, kinh doanh là all hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp ấy. Ở góc độ DN, thống trị không gồm có mua bán, mà kinh doanh gồm có cai quản. Phạm vi của kinh doanh rộng to quản lý, nội dung cũng phức tạp hơn.
Cai quản và lãnh đạo
Trong không gian ngày nay, ở nơi nào chúng ta đủ nội lực nhìn thấy lãnh đạo:
- Mỗi đất nước đều có Đảng cầm quyền và Chính phủ lãnh đạo;
- Các doanh nghiệp đều có chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch điều hành, tổng giám đốc, giám đốc bộ phận lãnh đạo;
- Quân đội cũng không thể rời xa sự lãnh đạo của các quan chức quân đội các cấp. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng có người đứng trên đỉnh có quyền uy lãnh đạo các member trong đơn vị.
Trong cuộc sống thực tế, k ít người cho rằng lãnh đạo và thống trị là cũng một định nghĩa, giữa chúng không có gì không giống nhau, tiến trình lãnh đạo hầu như chính là quá trình quản lý. Song thực ra, giữa chúng có sự khác biệt và cũng có liên quan với nhau.
Những nhà thống trị học có những quan niệm không giống nhau về khái niệm lãnh đạo, nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người dẫn dắt cấp dưới thực hiện mục đích của tổ chức. thống trị và lãnh đạo đều có mục đích là thực hiện mục tiêu của đơn vị, nhưng chúng có điểm không giống biệt rõ rệt như sau:
Lãnh đạo và cai quản k thuộc cùng một phạm trù.
Lãnh đạo là một tính năng của cai quản, thường được gọi là tính năng lãnh đạo, còn tính năng không giống của cai quản lại không hề là lãnh đạo. Ví dụ: công việc mà những người tham vấn trong tổ chức sử dụng là công tác quản lý, nhưng chẳng phải là công tác lãnh đạo. quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi thống trị, vừa gồm có hoạt động nghiệp vụ không giống. Ví dụ: một người lãnh đạo công ty cần gặp và tiếp nhân vật cần thiết, tham gia đàm phán, tham gia những hoạt động chung.
Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý liên kết giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là chủ đề cốt lõi trong hoạt động thống trị. Còn về quản lý, ngoài thống trị con người, phân khúc của thống trị còn gồm có tài chính, vật chất. thống trị k chỉ xử lý gắn kết giữa người với người mà còn phải xử lý mối gắn kết tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều đối với lãnh đạo.
Thống trị và lãnh đạo không giống biệt nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau
Lãnh đạo và thống trị thuộc 2 tầng hoạt động không giống nhau song chúng lại có quan hệ mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo hội tụ vào việc mang ra quyết sách, xác định mục đích, plan phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương hướng lãnh đạo khu vực, ban lĩnh vực, tổ chức tiến lên phía trước… Còn quản lý tụ họp giữ vững và tăng trưởng cường hoạt động của đơn vị để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo vừa mới xác định.
Trên đây là những tổng hợp của Reviews365 về Định Nghĩa Quản Lý là gì. Bạn cũng có thể để lại ý kiến của mình về vấn đề này tại phần bình luận dưới đây! Chúng ta hãy cùng đóng góp và chia sẻ kiến thức nhé! Chân thành cảm ơn bạn!
Reviews365 là website chia sẻ kiến thức miễn phí bằng tiếng Việt, tiếng Anh, giúp bạn tìm hiểu thông tin và giải trí sau giờ học tập và làm việc căng thẳng. Chúng tôi mong muốn mang lại nhiều điều thú vị, giao lưu với BQT Reviews365 tại fanpage
Để lại bình luận
5