Khái niệm về kinh dịch - kinh dịch là gì?

Kinh dịch được hiểu là hệ thống tư tưởng vĩ đại nghiên cứu dựa trên quy luật không đổi của tạo hóa, sự vận động của vạn vật, và sự biến đổi xoay quanh 3 yếu tố cốt lõi là thiên – địa – nhân. Trải qua hàng ngàn năm, Kinh dịch đã được bổ sung rất nhiều nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng tinh hoa một cách rõ ràng.

Kinh dịch được áp dụng vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, mệnh lý học, quân sự.

Ý nghĩa của kinh dịch

Cho tới nay, Kinh dịch giống như một bảo điển giúp giải khai mật mã vũ trụ, hạnh phúc nhân sinh. Bên cạnh đó, ý nghĩa của nó không ngoài 3 điều cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:

  • Giản dịch: là chỉ rằng, sự vật trên thế giới có phức tạp, huyền bí thế nào đi nữa, một khi trí tuệ nhân loại đạt đến được, thì có thể chuyển đổi chúng thành vấn đề mà mọi người dễ lý giải và có khả năng xử lý được.
  • Biến dịch: là chỉ rằng mọi sự vật trên thế giới mỗi phút mỗi giờ đều đang biến hóa, phát triển, không có vật gì là bất biến. Nếu rời xa sự biến hóa này, vũ trụ vạn vật khó mà hình thành được.
  • Bất dịch: là chỉ rằng dưới tiền đề vạn vật trong vũ trụ đều biến đổi, vẫn còn có thứ duy nhất bất biến tồn tại (không thay đổi theo không gian và thời gian) đó chính là quy luật.

Ngoài ra, mọi người có thể hiểu đơn giản rằng: Vì biến dịch cho nên có sự sống; Vì bất dịch cho nên có trật tự cuộc sống; Vì giản dịch cho nên con người có thể quy tụ mọi biến động sai biệt thành quy luật để tổ chức đời sống xã hội.

Quẻ Kinh Dịch bao gồm 64 quẻ, có xuất phát từ 8 quẻ Bát Quái, mỗi quẻ có 6 vạch. Xem bói quẻ Kinh Dịch giúp tiên đoán hôn nhân, xuất hành, vận hạn trong tương lai gần. Ý nghĩa 64 quẻ kinh dịch có cả tốt và xấu, kèm theo đó là lời khuyên về đạo đức. 

Chính vì thế, con người hiện đại ngày nay không chỉ trân trọng nó mà còn ra sức tìm hiểu và ứng dụng nó ngày càng sâu rộng hơn. Việc ứng dụng Kinh dịch vào đời sống thông qua 64 quẻ dịch là vô cùng phổ biến. Cùng chúng tôi tìm hiểu ý nghĩa của 64 quẻ dịch qua bài viết dưới đây nhé!

Khái niệm về kinh dịch - Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ dịch trong kinh dịch
Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ dịch trong kinh dịch

Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ kinh dịch

1. Quẻ Thuần Càn

Quẻ Thuần Càn hay còn gọi là quẻ Càn, tức là Trời. Đây là quẻ số 1 trong Kinh dịch. Trong đó:

  • Nội quái là Càn
  • Ngoại quái là Càn

Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Trời có đức nguyên vì là nguồn gốc của vạn vật. Đồng thời, trời có đức hanh vì làm ra mây, mưa để vạn vật sinh trưởng. Cuối cùng, trời có đức lợi và trinh vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính.

Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức:

  • Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
  • Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời.
  • Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
  • Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời

2. Quẻ Thuần Khôn

Quẻ Thuần Khôn còn gọi là quẻ Khôn, tức Đất. Là quẻ số 2 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là khôn
  • Ngoại quái là Khôn

Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. Chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. Nếu đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bên vững, tốt.

Quẻ Càn thì gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Vì thế, Càn cương kiện còn Khôn thì nhu thuận. Càn tạo ra vật vô hình, thuộc phần khí còn Khôn thì vạn vật hữu hình. Có vậy, vạn vật mới sinh trưởng, sinh sôi tốt đẹp. Khôn bổ túc cho Càn, theo sau Càn.

Khôn có đủ các đức như Càn nhưng với đức trinh thì Khôn hơi khác. Đức trinh của Khôn, tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng ngựa cái để tượng Khôn: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực.

Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn, phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất, chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn).

3. Quẻ Thủy Lôi Truân

Quẻ Thủy Lôi Truân đôi khi còn gọi là quẻ Truân. Đây là quẻ số 3 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)

Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn.

Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).

Tượng quẻ này là Chấn (Sấm), ở trên là mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm. Vì thế mà quẻ đặt là Truân. Lại thêm, nội quái có một hào dương (Cương), hai hào âm (Nhu). Ngoại quái cũng như vậy, cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật mà lúc đầu bao giờ cũng gian nan (Truân).

Trong lúc gian nan mà có động thì có thể là tốt, nhưng phải kiên nhân giữ điều chỉnh. Đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình.

4. Quẻ Sơn Thủy Mông

Quẻ Sơn Thủy Mông còn gọi là quẻ Mông. Là quẻ thứ 4 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)

Trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công).

Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông.

Xét theo hình tượng, cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).

Quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.

Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).

5. Quẻ Thủy Thiên Nhu

Quẻ Thủy Thiên Nhu còn gọi là quẻ Nhu.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)

Chờ đợi vị hiểm đằng trước, thuận theo. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thôi.

Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.

Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5. Hào này ở vị trí tôn mà lại trung, chính, Vì thế nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông. Quẻ này miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được qua mà thành công.

Đại khái, quẻ này được giải thích là dưới là Càn, trên là Khảm (mây), có cái tượng mây đã bao kín bầu trời thế nào cũng mưa. Vì thế, cứ ăn uống yến lạc yên vui di dưỡng thể xác và tâm trí mà chờ đợi lúc trời đổ mưa.

Quẻ này rút ra chỉ cho ta cách hành xử khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay xa. Cốt nhất ở đây là đừng nóng nảy, phải biết giữ trung tính. Chúng ta để ý rằng hào 5 quẻ Khảm tức là ở giữa cơn nguy hiểm mà vẫn được cho là vị trí tốt bởi ở đó cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.

6. Quẻ Thiên Thủy Tụng

Quẻ Thiên Thủy Tụng hay còn gọi là quẻ Tụng. Đây là quẻ thứ 6 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)

Quẻ chủ về bất hòa, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn tán.

Theo tượng quẻ này, người trên (quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới. Mà ở đây, người dưới (quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo. Hoặc, dễ cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì lại cương cường (ngoại quái Càn), tất sinh ra kiện cáo.

Chu Công cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho nên lo sợ phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì tốt. Còn, nếu như người đó cứ theo đuổi tới cùng, quyết thắng thì sẽ xấu.

Quẻ này khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 ứng với hào 2 vừa trung, chính, vừa ở ngôi cao) và nghe lời người đó thì sẽ có lợi. Nếu không, sẽ là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.

Còn theo Đại truyện, Càn có xu hướng đi lên, Khảm (nước) có hướng chảy xuống, như vậy là trái ngược nhau. Điều này cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh kiện cáo. Và lời khuyên khi gặp quẻ này là người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

7. Quẻ Địa Thủy Sư

Quẻ Địa Thủy Sư hay còn gọi là quẻ Sư. Đây là quẻ số 7 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)

Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhay thì lập phe, có đám đông nổi lên. Vì thế, sau quẻ Tụng là quẻ Sư – đám đông, có nghĩa là quân đội.

Quẻ này, trên Khôn, dưới Khảm. Theo Đại tượng truyện thì Khôn là Đất, Khảm là nước, ở giữa là đất và nước tụ lại. tượng cho quần chúng nhóm họp thành đám đông.

Theo Chu Hi thì Khảm là hiểm, trên Khôn là Thuận. Người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).

Quẻ Sư khuyên người ta nên nhớ:

  • Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa.
  • Dùng tướng phải xứng đáng (như hào 2), đừng để cho kẻ bất tài (như hào 3) tham gia.
  • Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo để khỏi mất lòng quân.
  • Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh.
  • Khi thành công, luận ban thưởng thì với kẻ tiểu nhân chỉ nên thưởng tiền bạc, không nên giao trọng trách.

8. Quẻ Thủy Địa Tỷ

Quẻ Thủy Địa Tỷ hay còn gọi là quẻ Tỷ. Đây là quẻ thứ 8 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)

Quẻ Sư là đám đông, khi đám đông gặp gỡ sẽ có liên lạc nên sinh quẻ Tỷ là liên lạc.

Quẻ này trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút nước nên có nghĩa là gần gũi gắn kết, thân thiết.

Trong đó, có một hào dương cương, trung chính (hào 5) thống lĩnh 5 hào âm còn lại, có cái tượng ông vua hay người trên được toàn thể dân (người dưới) tin cậy, quy phục. 5 hào âm ở vị trí tôn nên cần thận trọng, tự xét mình kỹ càng mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật là không có lỗi.

Quẻ này nói về nhóm bạn tìm thầy. Phải cẩn trọng ngay từ ban đầu, thành tín, trung chính, vì đạo chứ không vì lợi. Và, phải để cho được tự do, không nên quá ép buộc.

9. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc còn được gọi là quẻ Tiểu Súc. Đây là quẻ thứ 9 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)

Chữ Súc có nghĩa là nuôi, cũng có nghĩa là chứa (như chứa vật chất) và còn có nghĩa là ngăn lại, kiềm chế.

Theo tượng của quẻ, quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm ngăn cản dương, nhỏ ngăn cản lớn.

Cũng có người lý giải rằng Gió (Tốn) bay trên Trời (Càn), xa mặt đất, sức ngăn cản của nó nhỏ nên gọi là Tiểu Súc.

Xét các hào thì hào 4 âm nhu đắc vị, hào này là quan trọng nhất trong quẻ Tiểu Súc. Do luật chúng dĩ quả vi chủ, hào 4 ngăn cản được hào 5 dương, bắt phải nghe theo nó. Theo cách lý giải này, quẻ được gọi là tiểu súc

Theo quẻ này, nếu ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc chắn sẽ hanh thông. Tuy nhiên, có sự cản trở nhỏ nên chưa thể phát triển hết được. Có thể ví như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được.

Đại trượng khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh của quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi tài văn chương chứ đừng hoạt động chính trị.

Khái niệm về kinh dịch - Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ dịch trong kinh dịch
Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ dịch trong kinh dịch

10. Quẻ Thiên Trạch Lý

Quẻ Thiên Trạch Lý còn gọi là quẻ Lý. Đây là quẻ thứ 10 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)

Quẻ này chủ về nghi lễ, khuôn phép, hệ thống, pháp lý, tượng hổ lang đón đường.

Khi nhóm đông gặp nhau thì phải có trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ. Sống trong xã hội cũng phải tuân theo lễ, pháp lý.

Quẻ này, trên là dương cương (Càn), dưới là âm nhu (Đoài). Vậy, trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn.

Hào 5 của quẻ là hào dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có bệnh tệ gì mà lại được quang minh. Theo Đại trượng, trên dưới phân minh thì lòng dân mới không hoang mang.

Quẻ này là quẻ Lý, cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong đời người: mới ra đời thì phải giữ tính trong sáng, sau giữ vững đường chính (hào 2), biết sức mình không nên tự phụ (hào 3) để tránh nguy. Cần biết thận trọng và sợ hãi (hào 4) đến khi ở địa vị cao thì đừng ỷ thế mà kiên quyết quá (hào 5). Và nếu như, ăn ở được như vậy đến cuối đời thì là việc tốt.

11. Quẻ Địa Thiên Thái

Quẻ Địa Thiên Thái là quẻ số 11 trong Kinh dịch. Quẻ này hay còn gọi là quẻ Thái.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)

Quẻ Thái nghĩa là yêu thích, thông thuận.

Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm “khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính cách giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa thích.

Trên Khôn là âm nhu, kẻ tiểu nhân còn Càn ở dưới là quân tử. Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo Quân tử lớn mạnh. Hai bên ngang nhau nên gọi là Thái.

Về quẻ này, cho ta hiểu rằng trong (nội quái) là dương, ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần.

12. Quẻ Thiên Địa Bĩ

Quẻ Thiên Địa Bĩ hay còn gọi là quẻ Bĩ, là quẻ số 12 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)

Quẻ này nghĩa là không thông, bế tắc, xui xẻo, dèm pha, chê bai. Trong vũ trụ không có gì là thông hết được, hết thông thì sẽ đến thời bế tắc vì thế mà sau quẻ Thái là quẻ Bĩ.

Quẻ Bĩ trái với quẻ Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên và giao với âm. Còn với Bĩ, dương ở dưới đi lên, âm ở trên xuống những không giao nhau. Âm dương không giao thì sẽ bị bế tắc, điều này đúng trong đạo người và cả vạn vật.

Theo Đại trượng khuyên rằng: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả.

Quẻ này cho thấy, người bốc phải quẻ này hãy luôn sẵn sàng để nắm bắt cơ hội và thực hiện nó vì thời đã tới.

13. Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân

Quẻ này hay còn gọi là quẻ Đồng Nhân, là quẻ số 13 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)

Theo kiến giải của người Việt, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt.

Khi bế tắc không thể cách biệt mãi được mà phải có lúc giao hòa, cho nên sau quẻ Bĩ là quẻ Đồng Nhân. Đồng Nhân là cùng chung với người, đồng tâm hiệp lực.

Quẻ này có Ly ở dưới là lửa, sáng và văn minh. Bên trên có Càn hay là Trời. Quẻ này có tượng bốc lửa lên trời, soi khắp thế gian, vì thế mà dù có hiểm trở gì thì cũng sẽ vượt qua được.

Ở quẻ này, quan trọng nhất là hào 6. Hào này âm nhu đắc vị lại hợp với hào 5 dương cương đắc vị trong ngoại quái Càn, bởi vậy mới có hiện tượng nội ngoại tương đồng. Chính thế mà người ta gọi là Đồng Nhân.

Bàn thêm, người ta muốn thực hiện được cảnh tượng mọi vật cùng sống chung thì phải phân biệt từng loại của các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật; hễ cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được phát triển sở năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa đồng được.

Khi rút được quẻ này, chúng ta có 2 lời khuyên là:

Muốn hòa động thì không chia đảng phái, tôn trọng các đặc tính của mỗi người, khả năng và nhu cầu của mỗi người.

Công việc hòa đồng mọi người rất chính đáng nhưng cũng rất gian nan.

14. Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu

Hay còn được gọi là quẻ Đại Hữu. Đây là quẻ số 14 trong Knh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại Quái là Ly (Hỏa)

Theo giải thích của người Việt, quẻ này bổ sung thêm tượng sở hữu tài sản vật chất và tinh thần ở mức cao nhất. Khi đã hòa đồng cùng mọi người thì mọi người về với mình, sở hữu của mình cũng lớn hơn trong cộng đồng. Vì thế mà sau quẻ Đồng nhân là quẻ Đại hữu (có nhiều, có lớn).

Ở trên Càn là lửa ở trên trời, chiếu sáng mọi vật như vậy có nghĩa là văn minh. Càn cương kiện bao gồm văn minh và cương kiện nên có thể sẽ rất hanh thông.

Ngoài ra, còn cách hiểu nữa là quẻ này chỉ có 1 hào âm thống lĩnh các hào dương. Nó có thể thống lĩnh được vì nó ngôi tôn mà đắc trung, hợp với hào 2 dương ở giữa quẻ Càn.

Theo Địa tượng truyện khuyên người quân tử khi gặp quẻ này phải ngăn đón những điều dữ khi nó chưa phát hiện. Và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời.

Quẻ này khuyên người ta sống trong cảnh giàu có, nên khiêm, kiệm, giao thiệp với người nên chí thành.

15. Quẻ Địa Sơn Khiêm

Quẻ Địa Sơn Khiêm là quẻ thứ 15 trong Kinh dịch. Quẻ này còn được gọi là quẻ Khiêm.

  • Nội quái là Cấn (Núi)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)

Quẻ Đại hữu thì là thời rất thịnh, không nên chung để cho quá đầy, vì thế mà nên nhún nhường, nên Khiêm lại.

Quẻ này có trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp thì núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Vì thế mà có thể được hanh thông.

Quẻ này chỉ có một hào dương và được coi là chủ quẻ. Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ, đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Theo đạo trời, cái gì đầy thì làm cho bớt, cái gì khuyết thì đắp thêm vào. Đạo đất và đạo quỷ thần cũng vậy. Còn đối với đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.

Khi bốc được quẻ này, khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho vạn vật cần xứng, quân bình.

Trong quẻ này, hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại Hữu. Đa số các triết gia đều rất đề cao đức Khiêm, khi đầy phải nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ.

16. Quẻ Lôi Địa Dự

Quẻ Lôi Địa Dự hay còn gọi là quẻ Dự. Đây là quẻ số 16 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)

Quẻ này nói về sự vui vẻ. Có Chấn ở trên, Khôn ở dưới nên có nghĩa là ở trên thì động, ở dưới thuận theo như vậy tất vui vẻ.

Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (Chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ.

Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5 hào âm đều theo nó, nó làm chủ trong quẻ , như một người tài đức, làm việc gì cũng thuận cả, tất thành công, sẽ vui vẻ, an ổn.

Bàn thêm, cái đạo thuận lẽ mà hành động đó là đạo trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm, không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau chẳng bao giờ sai. Thánh nhân thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không phiền phức mà dân chúng phục tòng.

17. Quẻ Trạch Lôi Tùy

Quẻ Trạch Lôi Tùy hay còn gọi là quẻ Tùy. Đây là quẻ số 17 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)

Tùy nghĩa là theo, rất hanh thông những phải theo điều chính đáng.

Quẻ có Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động. Đó là cái tượng hành động mà được người vui theo. Hoặc có thể hiểu rằng Chấn là Sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là Tùy.

Quẻ Tùy so với quẻ Càn thì còn kém, tuy nhiên cần bàn thêm: theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ như thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó.

Quẻ này khuyên chúng ta nên theo chính nghĩa không vì tư tình, vì lợi và biết tùy thời. Có như vậy thì tốt tới cũng được.

18. Quẻ Sơn Phong Cổ

Quẻ này hay còn gọi là quẻ Cổ, là quẻ thứ 18 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)

Quẻ này có sự không yên trong lòng, làm ngờ vực, làm cho sợ sệt. Cổ có hai nghĩa là đổ nát và công việc. Hễ đổ nát thì phải sửa lại, thế là có công việc.

Quẻ này trên là núi, dưới là gió, gió đụng núi quật lại, đó là tượng loạn, không yên, tất phải có công việc.

Tốn ở dưới là thuận, mà Cấn ở trên là ngưng chỉ; người dưới thì thuận mà người trên cứ ngồi im; hoặc người dưới một mực nhu, người trên một mực cương để nén người dưới, như vậy mọi sự sẽ đổ nát, phải làm lại.

Đổ nát mà làm lại thì tốt, rất nên nhưng cần phải xông pha, có kế hoạch trước sau. Cổ là đổ nát, rất xấu mà thoán từ khen là tốt, chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân, mà canh tân là điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà không bắt đầu trở lại.

19. Quẻ Địa Trạch Lâm

Quẻ Địa Trạch Lâm là quẻ số 19 trong Kinh dịch, hay còn gọi là quẻ Lâm.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)

Quẻ có nghĩa là quân tử dạy dân, che chở, bao bọc cho dân vô bờ bến. Trên là Đoài có đất, đất tới sát nước nên gọi là Lâm (tới gần). Hào 2 cương trung ứng với hào 5 nhu trung, nhân sự có phần vui vẻ, cũng hanh thông nữa.

Tuy nhiên, khuyên rằng trong cảnh hanh thông đừng nên phóng túng mà nên giữ vững chính đạo. Nếu không thì đến tháng 8 (hoặc 8 tháng nữa) sẽ hung.

Đất tới sát chằm thì có cái tượng quân tử tới dân, giáo hóa dân không bao giờ thôi, bao dung, giữ gìn cho dân.

Khái niệm về kinh dịch - Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ dịch trong kinh dịch
Luận giải chi tiết ý nghĩa 64 quẻ dịch trong kinh dịch

20. Quẻ Phong Địa Quan

Quẻ Phong Địa Quan là quẻ thứ 20 trong Kinh dịch, hay còn gọi là quẻ Quan.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)

Quẻ Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thất, cho nên sau quẻ Lâm là quẻ Quan – xem xét.

Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài. Thêm nữa, hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo.

Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo. Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục.

Quẻ Quan này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi gương.

21. Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp

Quẻ này hay còn gọi là quẻ Phệ Hạp. là quẻ số 21 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)

Người ta lý giải rằng, tình và lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp được nhau, nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách. Vì thế, sau quẻ Quan tới quẻ Phệ Hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp.

Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông, dùng vào việc hình ngực thì có lợi. Quẻ Phệ Hạp này nói về việc hình ngục.

Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới, ở giữa có 3 vạch đứt, là miệng há ra, xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm dãn cách hai hàm răng. Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp lại được với nhau.

Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng. Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt.

Hào 5 là hào làm chủ trong quẻ, ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có nhu một chút. Nếu chỉ có cương thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát.

Về quẻ này, đại ý khuyên rằng:

  • Người xử hình phải sáng suốt trước hết, cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ tâm và luôn luôn phải giữ đạo chính, thận trọng.
  • Hào 4 tốt vừa cương vừa nhu, có tài có địa vị. Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không dân sẽ quen làm bậy.

22. Quẻ Sơn Hỏa Bí

Quẻ Sơn Hỏa Bí hay còn gọi là quẻ Bí, là quẻ thứ 22 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)

Quẻ nói về trang sức, sửa sang, rõ ràng. quang minh. Đám đông hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, văn vẻ, cho nên tiếp theo Phệ Hạp là quẻ Bú (văn vẻ, sáng sủa, trang sức).

Trang sức văn vẻ thì hanh thông, làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ thôi.

Trên núi, dưới lửa, lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, như trang trí những món trang sức cho núi.

Trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn.

Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm như trang sức cho hai hào dương, còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức.

Từ đó rút ra, điều gì cũng vậy, có chất, tinh thần, mà lại thêm văn, hình thức thì tốt còn nếu như chỉ nhờ trang sức mà thành công thì lợi ít.

Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là tốt nhưng nên trọng văn hơn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng mà không nên quá màu mè.

Lời khuyên khi rút phải quẻ này là việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm.

23. Quẻ Sơn Địa Bác

Quẻ này còn được gọi là quẻ Bác, là quẻ thứ 23 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)

Quẻ Bí có Bí là trang sức, khi trau dồi tới cực điểm thì món hết. Chính bởi vậy mà sau quẻ Bí thì sẽ tới quẻ Bác – mòn, bóc, lột bỏ cho tiêu mòn dần đi.

Bác – tiêu mòn, hễ tiến tới hành động thì không lợi. Theo tượng quẻ, năm hào âm chiếm chỗ của hào dương, âm tới lúc cực thịnh thì dương chỉ có một hào, sắp đến lúc tiêu tan. Do đó gọi quẻ này là quẻ Bác. Lão tử khuyên rằng “đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, đại xảo nhược chuyết (vụng)“ nghĩa là phải tạm giấu cái khôn, cái khéo, cái dũng của mình để được yên thân đợi chờ cơ hội.

Theo Thoán truyện, nên thuận đạo trời mà ngưng mọi hoạt động vì nội quái là Khôn, có nghĩa là thuận, ngoại quái là Chấn có nghĩa là ngưng.

Theo Đại tượng truyện thì chỉ xét quẻ mà đưa ra một nghĩa khác: ngoại quái là núi, nội quái là đất; núi ở trên đất, đất là nền móng của núi; đất có dày thì núi mới vững; vậy người trên (nhà cầm quyền) phải lo cho dân an cư lạc nghiệp thì địa vị của người trên mới vững.

Quẻ này nói về thời âm thịnh dương suy, tiểu nhân tàn hại quân tử, tiểu nhân tuy rất đông, nhưng vẫn có một số (hào 3 và 5) hiểu đạo cải quá, đứng về phe quân tử, và khi xã hội lâm nguy thì ủng hộ quân tử. Người quân tử mới đầu chỉ nên im hơi lặng tiếng mà chờ thời, chuẩn bị cho lúc thịnh trở lại.

24. Quẻ Địa Lôi Phục

Quẻ này gọi là quẻ Phục là quẻ thứ 24 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)

Quẻ Phục – đạo tiểu nhân thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần. Phục là trở lại, hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi.

Khí dương bây giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do, không bị tai nạn, rồi sẽ có hào dương khác kéo tới. Sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại.

Giảng thêm, sở dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm).

Quẻ này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo; hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì cũng không lỗi.

25. Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng

Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng là quẻ thứ 25 trong Kinh dịch. Quẻ này còn được gọi là quẻ Vô Vọng.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)

Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa cho nên sau quẻ Phục và quẻ Vô Vọng – càn, bậy.

Không càn bậy thì rất hanh thông, hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì không hợp với chính đạo thì có hại, có lỗi hành động thì không có lợi.

Tượng quẻ này: nội quái là Chấn (hành động), ngoại quái là Càn (Trời), hành động mà hợp với lẽ trời thì không càn bậy thì hanh thông có lợi.

Nói thêm, nội quái nguyên là quẻ Khôn mà hào 1 âm biến thành dương, thành quẻ Chấn. Thế là dương ở ngoài tới làm nội quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động, hành động. Động mà cương kiên như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy.

Quẻ này cũng nhấn mạnh vào lẽ tùy thời. Cả 6 hào đều là “vô vọng” cả, không càn bậy mà tùy thời, có lúc hoạt động thì tốt như hào 1, 2; có lúc lại nên thản nhiên, chẳng làm gì cả, như hào 5, có lúc không nên hành động như hào 4 (nếu hoạt động thì bị họa) và như hào trên cùng.

26. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc

Quẻ Sơn Thiên Đại Súc còn được gọi là quẻ Đại Súc, là quẻ thứ 26 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)

Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại.

Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).

Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).

Quẻ này Thoán từ nói về sự súc tích tài đức, mà Hào từ lại xét cách ngăn cản kẻ hung hãn. Hai hào có ý nghĩa nhất là 4 và 5: muốn ngăn thì phải ngăn từ khi mới manh nha; và muốn diệt ác thì phải diệt từ gốc, tìm nguyên nhân chính mà trừ thì mới không tốn công, kết quả chắc chắn.

27. Quẻ Sơn Lôi Di

Quẻ Sơn Lôi Di hay còn gọi là quẻ Di, là quẻ số 27 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)

Di có hai nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Nhìn hình quẻ, chúng ta thấy như cái miệng mở rộng, hai nét liền ở trên và dưới như hai cái hàm, toàn bộ gợi cho ta ý cái cằm (thay cái mép) lại gợi cho ta sự ăn uống để nuôi sống.

Nuôi tinh thần hay thể chất, cũng phải hợp chính đạo thì mới tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình thì biết tốt hay xấu. Từ đó có thể suy rộng ra, trời đất khéo nuôi vạn vật mà vạn vật sinh sôi nảy nở về mọi mặt; thánh nhân dùng những người hiền giúp mình trong việc nuôi dân chúng; cái đạo nuôi nấng lớn như vậy đó.

Đại tượng truyện thêm ý rằng, theo cái tượng của quẻ, thì dưới núi có tiếng sấm, dương khí bắt đầu phát mà vạn vật trong núi được phát triển như vậy là trời đất nuôi vật. Người quân tử tự nuôi mình thì phải cẩn thận về lời nói để nuôi cái đức, và tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể.

Về quẻ này, ba hào cuối đều có nghĩa là nuôi về tinh thần, giúp đỡ dân chúng nên đều được “cát” hết. Ba hào đầu có nghĩa là nhờ người nuôi thể xác của mình, cho nên đều xấu.

28. Quẻ Trạch Phong Đại Quá

Quẻ này còn được gọi là quẻ Đại Quá, là quẻ thứ 28 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)

Có thể hiểu rằng, có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường. Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; – nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.

Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi. Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông.

Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn).

Tên quẻ là Đại quá (lớn quá), mà Hào từ lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào trên cùng tuy không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả.

29. Quẻ Thuần Khảm

Quẻ Thuần Khảm hay quẻ Khảm là quẻ thứ 29 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)

Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm.

Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét đứt), trái với quẻ Ly, như cái miệng lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly là lửa. Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm.

Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa, dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm, có lòng chí thành thì kh&ocir

3, Theo Reviview 365 tổng hợp